Phân tích “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ những cảm hứng về đất nước của nhà thơ
Phân tích “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ những cảm hứng về đất nước của nhà thơ
Bài làm tham
khảo:
Tiếng thơ hào sảng về đất nước
Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh,
có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi
hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết
cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai
nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948,1949) và hoàn
thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là
thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy
được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề
lớn: Đất nước !
Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng
mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội : không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian và quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.
Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội :
Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ… là thức dâng của cánh đồng
bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của
đồng quê nội cỏ.
(Hà Nội ba sáu phố phường )
Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (
Nhớ mùa thu Hà Nội ) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… làm thành nét
thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành :
Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề
bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu / … Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội
/ mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm
sữa vỉa hè / thơm bước chân qua…
Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của
mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với
Hà Nội thấm thía xao xác khi ở xa trông về. Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học
trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng may bay.
Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những
dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước”
( Nguyễn Đình Thi – Bài thơ Đất nước )
Dòng thơ thứ ba : Tôi nhớ những ngày thu đã xa là một sự
chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến
đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra :
Tôi còn nhớ những ngày thu đã xa
Ở đây, còn có một lý do nữa : Trong bài thơ Sáng mát trong
như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp : Cỏ mòn thơm mãi dấu
chân em. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức
Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh
kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy
cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ.
Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa :
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp
và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may,
phố dài ). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho
mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ
hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.
Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế
mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng
phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ
cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt
được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không
chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là
một phần trong tâm hồn nhà thơ.
Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc
tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế
khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến :
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng là rơi đầy
Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong
câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ
thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người
lính của Trung đoàn Thủ đo khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời
Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra
vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi
kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12
năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra
đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu
không ngoảnh lại ) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu
thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ : Hình ảnh ấy gần với
người ra đi của Thâm Tâm:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
(Tống biệt hành )
Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ : Người ra đi này cũng không phải
tác giả hoặc một người cụ thể – người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc
vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ
nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều
tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến
lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh
ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau
lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc, ngày 14.12.1983)
Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất
của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về
hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn
nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ
nhật, ngày 11.8.1991)
Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc
về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc :
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phất phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu
thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc
và thanh trắc (phất phới, áo mới ). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn
là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt,
gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả
sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ
hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng.
Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét
riêng biệt của mùa thu mới : âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong
sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn
Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào :
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên
dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách
khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn
ây. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý : Trời
xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực, lại vừa có ý nghĩa tượng
trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ,
trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi từng viết :
Trời xanh ơi hỡi xanh không nói
Hồn tam muốn hiểu chẳng cùng cho
Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và
sự hiểu biết của con người.
Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt,
Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống
và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy.
Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn
Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại
xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những
thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dân cho đất nước.
Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần
bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại
:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc
nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá
khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh
độc đáo khác nhau về mối quan hệ ấy. Từ Huy Cận :
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tưới vạn dặm đường xuân
(Các vị La Hán chùa Tây Phương)
đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ
đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn… rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm
tháng đánh Mỹ :
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em, đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
(Mặt đường khát vọng)
Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn : đất nước từ trong
đau thương căm hờn đứng lên ngời sáng.
Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh :
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong
lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn
Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh
chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn
Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều
khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô
cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở –
gây một tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và
nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người
viết : chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự huỷ hoại, với
cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái
nhìn tinh tế và đau xót ấy :
Có làng trung đoàn ta đi qua
Máu đông in dấu giày đinh giặc
Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai
Chiếc tả đầu giường đang cháy dở
(Quang Dũng- Những làng đi qua,1947)
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau
(Vũ Cao – Núi đôi, 1956)
Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến
sĩ :
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu : ngoài/trong.
Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối
xứng khác:
những / bỗng
nung nấu/bồn chồn
Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sữ :
tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có
vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dâu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời
kỳ ấy : tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không
có tình cảm riêng.
5 khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất
nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi
sinh như những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng
nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc,
bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa… Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang
tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng, mảng nọ đặt cạnh mảng
kia để bộc lộ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những
hình ảnh rời làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc,
suy nghĩ của tác giả.
Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những
hình ảnh, những ý mới :
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
…
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ
chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và
việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn
vào phần vị ngữ :
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
…
Đã ngời lên nét mặt quê hương
…
Đã bật lên những tiếng căm hờn
…
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
…
Đứa đề cổ đứa lột da…
Các câu thơ với hình ảnh tương phản ( xiềng xích / trời,
súng đạn / lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày
nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm
trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với
mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới hình thành, nhất
là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng
mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy
hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước
. Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạp âm hưởng dõng
dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại
chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp
nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi
nhau bắn vào đầu giặc…Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến
trường Điện Biên Phủ”.
Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn hơn. Đó cũng là bài thơ hay của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố : hình ảnh chân thực và chất suy tưởng, khái quát, cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước. Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam