Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Đề bài: Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Bài làm:
Hàn Mạc Tử là một
nhà thơ mới có hồn thơ “điên”, hướng về những thứ mộng mị, hư ảo chìm sâu vào
cõi mộng để trốn tránh thực tại khổ đau, là một trong những nhà thơ có sức sáng
tạo mãnh liệt. Một trong những bài thơ hay và nổi tiếng của ông mang đến một luồng
gió lạ trong phong trào thơ mới, đó là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức
tranh phong cảnh của thôn Vĩ trong tâm trí của Hàn Mặc Tử và nó đã cho ta thấy
khát vọng sống mãnh liệt nhưng cũng đầy uỷ khuất của tác giả.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng một tấm bưu ảnh chụp phong cảnh sông nước có thuyền và bè kèm mấy lời thăm hỏi mà một người con gái Hàn Mạc Tử yêu đã gửi cho ông khi ông mắc bệnh hiểm nghèo. Mở đầu bài thơ, Hàn Mạc Tử đã đưa ta đến với khung cảnh ban mai thôn Vĩ Dạ tươi mới, tràn ngập sức sống:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Mở đầu bài thơ là
câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như lời trách
nhẹ nhàng, một lời mời gọi thiết tha. Nó vừa như là lời mời và cũng như là lời
tự vấn của Hàn Mặc Tử, hay cũng như là một cái cớ vừa nhẹ nhàng, vừa xót xa để
tác giả gợi nhớ về thôn Vĩ. Hình ảnh thôn Vĩ được hiện lên đầu tiên qua ánh “nắng
hàng cau”,”nắng mới lên”, ánh nắng đầu tiên của buổi sớm mai, nhẹ nhàng, trong
trẻo.
Sau một đêm bừng tỉnh, khi sương vẫn còn đọng, ánh nắng sớm
mai đã tràn ngập khắp khu vườn, tràn ngập trên những hàng cau nhưng đã là bừng
lên sự sống cho cả khu vườn. Điệp từ “nắng” được lặp lại hai lần như để nhấn mạnh
vào hình ảnh “nắng”. Ánh nắng lan toả, tràn ngập khắp không gian tạo nên một
khung cảnh thanh mát, tươi mới, dịu dàng, thoải mái.
Tính từ “mướt” có sức gợi tả, gợi cảm cao, không chỉ để diễn
tả màu sắc còn thể hiện sức sống của sự vật. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng một
hình ảnh so sánh đẹp giàu sức gợi tả, gợi cảm “xanh như ngọc” làm khu vườn như
bừng lên sắc xanh của cây lá. Một khu vừa vừa tràn ngập sắc xanh cây lá, vừa lấp
lánh ánh nắng sớm mai chiếu từ trên những hàng cau xuống đã tạo nên một bức
tranh thiên nhiên của thôn Vĩ đẹp tựa tiên cảnh.
Đại từ phiến chỉ “ai” trong từ “vườn ai” không chỉ rõ một
con người cụ thể nào cả, gợi nên một nét đẹp khó nắm bắt mà lại rất xa vời. Bức
tranh thiên nhiên ấy như được hoàn thiện hơn khi có sự xuất hiện của con người.
Nhưng hình ảnh con người ở đây ẩn hiện khi “mặt chữ điền” bị “lá trúc che
ngang”.
Hình ảnh “mặt chữ điền” ở đây là một hình ảnh đa
nghĩa, nó có thể là gương mặt phúc hậu của một người con gái xứ Huế, hoặc có thể
đó chính là gương mặt của tác giả Hàn Mặc Tử khi muốn đắm mình vào với cảnh sắc
thiên nhiên thôn Vĩ. Dù là ai đi chăng nữa thì hình ảnh con người xuất hiện ở
đây đã tạo nên sức hấp dẫn cho cảnh thiên nhiên thơ mộng. Con người giản dị, chỉ
hiện, e thẹn, kín đáo sau lá trúc đã tạo nên một nét duyên dáng rất riêng của xứ
Huế.
Nếu mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đưa chúng ta đến với bức
tranh khu vườn thôn Vĩ xanh tươi, căng tràn sức sống thì theo ngay sau đó, là một
bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đó là cảnh thiên nhiên thôn Vĩ trong một đêm trăng thơ mộng, êm
đềm. Hình ảnh gió và mây hiện lên như một nghịch cảnh “gió theo lối gió” – “ mây
đường mây”. Gió có thổi thì mây mới bay, ấy vậy mà ở đây, gió và mây theo hai lối
riêng biệt. Sự chia xa của mây và gió cũng như chính là ám ảnh sự chia xa trong
tâm hồn, nỗi lòng của tác giả.
Hình ảnh nhân hoá “dòng nước buồn thiu” một lần nữa, như nhấn
mạnh thêm vào nỗi buồn của tác giả. Là dòng nước buồn hay là nỗi buồn của tác
giả đã ám lên dòng nước. Sự chuyển động nhẹ nhàng, hiu hắt của “hoa lắp lay”
trong một không gian, gió mây, nước như vậy như để khắc hoạ thêm về bức tranh thiên
nhiên đẹp nhưng lại nhuốm nỗi buồn.
Cảnh tuy đẹp nhưng lại lạnh lẽo, hoang sơ, cô đơn, u buồn, ảm
đạm, phảng phất tâm trạng thờ ơ cuộc đời của tác giả. Nỗi buồn trong lòng tác
giả hoà cùng nhịp buồn xứ Huế rồi vang lên một câu hỏi “Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó”. Trong cái tâm trạng phảng phất sự thờ ơ với cuộc đời ấy bỗng
bật lên một ước mơ, khát khao được níu giữ một thứ gì đó. Câu thơ như thể hiện
được niềm tin, khát vọng chờ đợi một điều gì tốt đẹp diệu kỳ sẽ đến với cuộc đời
của ông.
Một câu hỏi khác lại vang lên “Có trở trăng về kịp tối
nay. Đó là một hình ảnh vừa thực vừa hư, đến đây, đó không còn là ước
mơ khát vọng nữa mà đó còn là nỗi lo lắng, mặc cảm của Hàn Mặc Tử trước hiện tại
của mình. Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng mong ngóng, khao khát, chờ đợi xen lấn
chút bấn an và thất vọng.
Cảnh thiên nhiên ở đây đẹp nhưng cũng đượm buồn khi chứa đựng
dự cảm của sự chia xa, khát khao gắn bò với cuộc đời trong những giây phút ngắn
ngủi còn lại. Mạch cảm xúc ở đây có sự chuyển biến đột ngột từ niềm vui của hi
vọng sang trạng thái lo âu, u buồn, thất vọng khi tác giả bất chợt nghĩ và mặc cảm
về số phận của mình.
Kết thúc bài thơ là những mong muốn xa vời của tác giả, đó
cùng là tình yêu cuộc sống thiết tha, khát vọng yêu thương và gắn bó với cuộc đời:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây xương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Hình ảnh “khách đường xa” được lặp lại hai lần trong câu thơ
như để nhấn mạnh vào hình ảnh con người. Có thể nói, hình ảnh người con gái xứ
Huế ấy đã in đậm trong tâm trí của Hàn Mặc Tử dù giờ đã trở nên xa vời với khoảng
cách về không gian và thời gian. Hình ảnh “em” được hiện lên quá “áo trắng” đến
nỗi mà tác giả cũng không thể nhìn rõ được. Tác giả như rơi vào trạng thái buồn,
hụt hẫng và xót xa.
Giờ đây trong không gian sương khói mờ ảo dường như đã làm
con người cũng mờ ảo theo không gian bất định ấy. Câu hỏi “Ai biết tình
ai có đậm đà” vang lên như bộc lộ nỗi cô đơn, trống vắng trong tâm hồn
thi nhân khi mà ông đang trong thời kì đau thương nhất. Lời thơ đã gợi tả sự
bâng khuâng, hi vọng rồi lại tuyệt vọng. Qua đó là khát vọng tha thiết được sống,
được yêu thương và gắn bó với cuộc đời.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử đã khắc hoạ cho chúng ta thấy một bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp nhưng lại ảm đạm, u buồn, nhuốm màu tâm trạng. Đó cũng là sự tha thiết cuộc sống, khát vọng sống mãnh liệt đầy đau thương của tác giả.